Hiển thị các bài đăng có nhãn CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 5 tháng 6, 2025

Vạch trần luận điệu của những “săng-ta chính trị” và thái độ của chúng ta

 

 Vào đêm trước của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, lãnh tụ V.I.Lênin đã viết bài “Một vụ săng-ta chính trị” trên Báo Người vô sản đăng số 10, ngày 6-9-1917 nhằm đấu tranh chống lại bọn săng-ta chính trị. Đó là bọn chuyên "vu khống, dối trá, ám chỉ, tố cáo và phao tin đồn nhảm". Mục đích của bọn phản động này là: Bịa đặt, dọa dẫm, vu khống Đảng và các lãnh đạo của Đảng. Trong công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, bảo vệ Đảng trong những thời khắc khó khăn khi mà các lực lượng đối lập, thù địch bôi nhọ Đảng, chia rẽ Đảng với quần chúng nhân dân, giai cấp công nhân với nông dân và trí thức, V.I.Lênin đã viết: “Chúng ta tin tưởng ở đảng, chúng ta thấy ở đó trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta”. Trước “phút giao thừa” của cuộc cách mạng, quyết tâm “bảo vệ năng lực công tác của đảng ta, bảo vệ các lãnh tụ của đảng”, V.I.Lênin đã kêu gọi toàn thể đảng viên nâng cao nhận thức, cảnh giác trước những âm mưu chia rẽ nội bộ và hãy đoàn kết, siết chặt đội ngũ, tin tưởng vào tư cách của một đảng chân chính cách mạng và bảo vệ nền tảng Chủ nghĩa Mác, bảo vệ các lãnh tụ của Đảng. "Chúng ta hãy kiên quyết vạch mặt bọn săng-ta. Hãy kiên quyết đưa những mối nghi ngờ nhỏ nhất ra trước sự xét xử của những người công nhân giác ngộ, ra trước sự xét xử của đảng chúng ta", V.I.Lênin kêu gọi.

Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, các thế lực cơ hội chính trị, thù địch, phản động với nhiều “mưu ma chước quỷ” thường xuyên gieo rắc thông tin xấu độc, xuyên tạc tình hình, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo. Trước các loại thông tin bịa đặt như thời gian qua, mỗi chúng ta cần hết sức tỉnh táo, biết phân tích để phân biệt đúng sai. Đồng thời có thái độ kiên quyết đấu tranh, phản bác bằng những thông tin chính thống, công khai, minh bạch. Đó là thái độ, ý thức và trách nhiệm chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên, công dân, quân nhân, góp phần đẩy lùi bóng tối thông tin, bảo vệ thanh danh của Đảng, uy tín của quân đội, nhất là khi chúng ta đang tiến hành đại hội đảng các cấp hướng tới Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XII và Đại hội XIV của Đảng./.

KIÊN ĐỊNH, VẬN DỤNG SÁNG TẠO, PHÁT TRIỂN VÀ BẢO VỆ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 

Thực tiễn những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 95 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh rằng: Nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước, nhất là trong 38 năm đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng chính là nhờ sự kiên định, nắm vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển bức thiết của cách mạng Việt Nam và phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.

Nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2025) và bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Bài viết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, phản ánh cả tầm tư tưởng, lý luận và thực tiễn, làm sáng rõ thêm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong bài viết của mình, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đưa ra những lý lẽ sâu sắc, luận cứ thuyết phục về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan, là giải pháp đúng đắn để mang lại độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Kết thúc bài viết đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: “Điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học.”.

Qua thực tiễn lịch sử đã chứng minh, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mang tính khoa học, sự kế thừa và phát triển không ngừng. Chủ nghĩa Mác - Lênin được hiểu theo nghĩa chung nhất là học thuyết khoa học về quy luật  phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người; về cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động chống lại mọi sự bất công, nô dịch, áp bức; về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống hoàn chỉnh những quan điểm triết học, kinh tế chính trị, xã hội. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin là một chuyển biến cách mạng vĩ đại trong đời sống chính trị của nhân loại. Đây là học thuyết duy nhất từ trước đến nay bàn về mục tiêu, điều kiện và phương pháp giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, bất công và đói nghèo trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản” [].

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ đó hình thành nên một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam và lãnh đạo Đảng ta, dân tộc ta hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giành nhiều thành tựu vĩ đại trong sự nghiệp đổi mới. Tổng hợp tri thức văn hóa phương Đông và phương Tây, tư tưởng Hồ Chí Minh đạt tới tầm cao trí tuệ của thời đại, thấm đậm bản sắc văn hóa và bản lĩnh của dân tộc, có sức sống mạnh mẽ, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng được hoàn thiện, phát triển cùng với những thắng lợi và những bước tiến lên của cách mạng nước ta, của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước. Bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh là bảo vệ hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, cũng là bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện toàn cầu hóa. Từ thành quả và kinh nghiệm trong tổ chức lãnh đạo cách mạng, Văn kiện trình đại hội XIII của Đảng, thống nhất quan điểm: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [].

Nhìn lại lịch sử, từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời cho đến nay, luôn phải đương đầu với những cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng giữa các lập trường, tư tưởng đối lập nhau. Đặc biệt, sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt.

Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra. Đặc biệt là, năm 2008 - 2009 chúng ta đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước trên thế giới. Cho đến ngày hôm nay, chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh tế đang diễn ra dưới tác động của đại dịch Covid-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc. Cùng với khủng hoảng kinh tế - tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái... đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại.

Nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự xâm lược của thực dân, đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng: Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc.

Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp

với xu thế phát triển của lịch sử”.

Với Việt Nam, sự vận dụng và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nguyên nhân cơ bản của thắng lợi vĩ đại trong 2 cuộc kháng chiến, cũng như những thành tựu to lớn trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần khẳng định: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Thành quả đó đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Sự nghiệp đổi mới của nước ta đến nay đạt được những thành tựu hết sức to lớn và có ý nghĩa lịch sử cũng chính nhờ chúng ta nhận thức đúng đắn bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng một cách sáng tạo trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Thực tiễn 38 năm thực hiện chính sách đổi mới vừa qua cho thấy, công cuộc xây dựng, phát triển đất nước ngày càng đi vào chiều sâu thì chúng ta càng phải đối diện với những vấn đề khó khăn, phức tạp mới, lại đặt ra cho đất nước những cơ hội lớn và thách thức mới. Tất cả đều đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại cho đúng, vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển và bảo vệ lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với bối cảnh mới của thế giới và các điều kiện cụ thể trong nước hiện nay.

Tư tưởng của C. Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh ngay từ khi xuất hiện đã bị các thế lực thù địch và phản động không ngừng xuyên tạc, phê phán, bác bỏ và chống phá quyết liệt. Các thế lực thù địch vẫn đang dùng “trăm phương nghìn kế” để bôi nhọ, phủ định sạch trơn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thứ nhất, cố tình xuyên tạc, hạ thấp vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin,

tuyên truyền rằng tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin cách ngày nay đã quá xa, những tư tưởng này không còn phù hợp để lý giải một xã hội phát triển như hiện nay. Hơn nữa, họ còn cho rằng cả C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đều xuất phát từ bối cảnh lịch sử của phương Tây, vì vậy, không thể hiểu và không thể giải quyết vấn đề của phương Đông, đặc biệt là của Việt Nam. Lập luận này sai về cả lôgíc lẫn lịch sử. Thực tiễn cho thấy, không phải cứ thời gian càng trôi xa thì học thuyết, tư tưởng càng mất đi giá trị. Có những học thuyết, tư tưởng càng qua thời gian thì càng khẳng định giá trị của mình.

Thứ hai, tập trung tấn công tư tưởng Hồ Chí Minh với hai thái cực khác nhau: một là, hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng Hồ Chí Minh chỉ nhắc lại tư tưởng của C.Mác, PhĂnghen, V.I.Lênin và các nhà tư tưởng vĩ đại khác chứ không có tư tưởng của riêng mình hoặc tư tưởng không trở thành một hệ thống; hai là, đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, cho rằng Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa cộng sản. Cả hai quan niệm này đều sai, vì tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch sử Việt Nam. Người đã kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng truyền thống dân tộc và các giá trị tinh hoa của nhân loại. Chủ nghĩa Mác - Lênin ở Hồ Chí Minh không phải là những luận điểm sáo rỗng, giáo điều mà đã chuyển hóa thành hệ thống thế giới quan, phương pháp luận, nhân sinh quan khoa học, thực tiễn, trực tiếp chỉ đạo thành công của cách mạng Việt Nam.

Thứ ba, phủ nhận tính hợp pháp và tính chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay đã hết vai trò lịch sử. Đảng cầm quyền là không chính đáng, vì không được bầu lên; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm, sẽ thất bại giống như Liên Xô và một số nước Đông Âu,... Chúng cố tình quên rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã giành chính quyền từ tay ngoại xâm để xây dựng một nước Việt Nam mới độc lập, tự chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi qua các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc mà còn cả trong xây dựng đất nước. Thành tựu của sự nghiệp đổi mới, đời sống của người dân được cải thiện và nâng cao… là minh chứng sinh động nhất cho việc Đảng là đại diện cho ý nguyện và lợi ích của nhân dân.

Thứ tư, phủ nhận mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; cho rằng tất yếu phải đi theo con đường của chủ nghĩa tư bản. Những luận điệu đó bắt nguồn từ việc vô tình hoặc cố ý lẫn lộn giữa hiện tượng với bản chất, giữa tính đặc thù với tính phổ biến, giữa cái riêng với cái chung. Họ đã rêu rao tư bản chủ nghĩa là con đường duy nhất để phát triển, cố tình biến những khuyết điểm của chủ nghĩa tư bản thành ưu điểm, thần thánh hóa chủ nghĩa tư bản; khoét sâu những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội, quy kết thành bản chất của chủ nghĩa xã hội.

Từ thực tiễn trên cho thấy, công cuộc xây dựng, phát triển đất nước ngày càng đi vào chiều sâu thì chúng ta càng phải đối diện với những vấn đề khó khăn, phức tạp mới, lại đặt ra cho đất nước những cơ hội lớn và thách thức mới. Tất cả đều đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại cho đúng, vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển và bảo vệ lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với bối cảnh mới của thế giới và các điều kiện cụ thể trong nước hiện nay.

Phương pháp tốt nhất để phát triển, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là tiếp tục phát triển hệ thống các nguyên lý lý luận trên cơ sở thường xuyên tổng kết thực tiễn, dùng thực tiễn để bảo vệ lý luận, lấy thành tựu đổi mới, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người dân làm chỗ dựa vững chắc cho tư tưởng.

Trước mắt, cần tập trung nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề căn bản nhất trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, như: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị; phát huy dân chủ; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới; phát triển văn hóa, con người và nguồn lực con người; đặc điểm nội dung của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0)...

Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, việc giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề có tính nguyên tắc, đây là yêu cầu chính trị hàng đầu đặt ra đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thể hiện tập trung nhất của giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa là sự kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định con đường cách mạng mà Đảng ta, dân tộc ta đã lựa chọn. Đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc của đổi mới, đồng thời cũng là chủ trương, quan điểm của Đảng ta trong hội nhập quốc tế, mà thực chất là sự kiên định mục tiêu lý tưởng, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phải kiên quyết đấu tranh với những quan điểm, tư tưởng thù địch, sai trái, bảo vệ tính khoa học, trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cần tổ chức nghiên cứu, nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh từ những luận điểm chung đến những luận điểm cụ thể, trên từng lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Tăng cường hơn sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất cúa các cấp ủy đảng trong đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch; bảo đảm các hoạt động đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận theo đúng định hướng của Đảng, chặt chẽ về nguyên tắc, vững vàng trong quan điểm chính trị, sâu sắc về tính khoa học, hiệu quả trong phương pháp đấu tranh. Cần huy động lực lượng rộng rãi trong các cơ quan nghiên cứu lý luận, các cơ quan nghiên cứu khoa học, các cơ quan truyền thông, báo chí ... tiến công chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan đến vấn đề đấu tranh dưới nhiều hình thức, để kịp thời định hướng đấu tranh. Quan tâm đầu tư kinh phí, phương tiện, điều kiện, vật chất cho các hoạt động đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận.

Trong tiến trình lãnh đạo đất nước, thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta, Nhân dân ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều đó là một minh chứng sinh động, khẳng định Đảng ta đã tuyệt đối trung thành và vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Chúng ta cũng cần nhận thức sâu sắc rằng, con đường mà chúng ta đang đi tới là không dễ dàng, bằng phẳng mà phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ. Nhưng chúng ta luôn tin tưởng chắc chắn rằng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất định sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh được hiện thực hóa trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; các quan điểm sai trái, thù địch chống phá cách mạng Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận sẽ sớm bị vạch trần bởi tính chất phản khoa học, phản cách mạng của chúng./.

BÁC HỒ NIỀM TỰ HÀO DÂN TỘC VIỆT NAM

 

Bác Hồ chính là người anh hùng vĩ đại trong trái tim của người Việt Nam. Bác đã chiếu sáng con đường thành công của cách mạng Việt Nam. Làm thế nào một người con bé nhỏ từ xứ Nghệ có thể thực hiện được điều lớn lao đó? Trước Bác, cũng có nhiều người đi qua khắp nơi trên thế giới, nhưng họ đi thám hiểm, đi buôn, đi truyền giáo. Người đi qua khắp thế giới để cứu dân tộc của mình chỉ có một. Đó chính là Bác Hồ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Mỗi nơi mà Bác đi qua, Bác để lại một biểu tượng đẹp về lòng yêu nước. Bác lên tàu tìm đường cứu nước khi còn trẻ, và khi trở về, mái tóc Bác đã chuyển màu bạc. Bác không tiếc nuốt trọn tuổi thanh xuân cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bác đã mang lại cuộc sống an lành mơ ước cho người dân Việt Nam. Mọi việc Bác đã làm, từ nhỏ đến lớn, đều bắt nguồn từ lòng yêu nước chân thành và mãnh liệt. Chính tình yêu nước đó đã tạo nên Bác Hồ, người anh hùng dân tộc của chúng ta ngày nay.

Dưới sự lãnh đạo thông minh của Bác, quân và dân ta đã dũng cảm đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược với một niềm tin tuyệt đối vào ngày chiến thắng. Tuy nhiên, Bác không chỉ cứng rắn trong hoạt động quân sự mà còn rất tinh tế trong lĩnh vực văn học. Thơ của Bác không phong phú nhưng rất sâu sắc và ý nghĩa. Từng câu từng chữ đều thể hiện sự kiên định, niềm hy vọng, tin tưởng vào thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dù lúc ấy Bác đang trong tù hay sống giữa vô vàn gian khổ. Một danh nhân đã từng nói: “Khi nói về văn học Việt Nam, trước tiên cần hiểu về Bác, hiểu về con người văn hóa Hồ Chí Minh”. Quả thật như vậy, Bác đã kết hợp tinh hoa văn hóa nhân loại với cội nguồn văn hóa Việt Nam, tạo ra một nét văn hóa rất riêng biệt ở Bác. Mọi điều trên đã thuyết phục UNESCO trao tặng Bác danh hiệu “Danh nhân văn hóa thế giới”.

Không chỉ có tài năng, Bác còn là một tấm gương đạo đức rực rỡ. Biết bao người chiến sĩ cộng sản từng sống và làm việc với Bác thường không khỏi xúc động khi nhớ lại những ký ức đó. Bác luôn để lại ấn tượng đẹp trong lòng mỗi người gặp Bác bởi vẻ giản dị, mộc mạc và cực kỳ trong sạch. Trong mỗi lời nói của Bác đều ẩn chứa những nguyên tắc đạo đức mà không khô khan mà lại nhẹ nhàng, sâu sắc và dễ dàng lọt vào lòng người. Lối sống của Bác cũng rất bình dân, mộc mạc như mục đích sống của Bác là hết lòng vì nước, vì dân. Bác không có lâu đài như các vua chúa khác mà sống trong ngôi nhà sàn đơn giản để có thể hòa mình với thiên nhiên. Tủ quần áo của Bác cũng rất đơn giản, chỉ là hai bộ quần áo mà Bác thường mặc cùng vài kỷ vật sau những chuyến đi nước ngoài. Là một người lãnh đạo vĩ đại nhưng Bác lại giản dị và mộc mạc như thế. Mỗi câu chuyện về Bác đều là một bài học đạo đức nhẹ nhàng và sâu sắc.

Càng hiểu biết và tìm hiểu về Bác Hồ, chúng tôi càng tự hào về đất nước Việt Nam của mình, một đất nước nhỏ bé nhưng đã sinh ra những danh nhân vĩ đại. Hồ Chí Minh là một người chiến sĩ cộng sản kiên trung, là một người con anh hùng của dân tộc Việt Nam, cũng là một vị lãnh đạo vĩ đại của dân tộc. Bác là tia sáng của lý tưởng và niềm tin trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Dù đã đi xa, nhưng sao vẫn cảm thấy Bác đang dõi theo từng bước tiến của dân tộc. Ai dám hiến dâng cuộc đời cho nhân dân, cho loài người, thì người đó trở nên bất tử. Và Bác Hồ của chúng ta sẽ sống mãi cùng với non sông đất nước.

 

 

MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI, TRÁCH NHIỆM CỦA QUÂN ĐỘI TA

 


Nền tảng tư tưởng của Đảng là hệ thống lý luận, là cơ sở khoa học và thực tiễn về xây dựng Đảng, về nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng, về định hướng phát triển của Đảng, về mục tiêu đấu tranh cách mạng của Đảng. Nền tảng tư tưởng của Đảng là bộ phận quan trọng, là nhân tố căn bản, cốt lõi, tạo cơ sở, tiền đề quyết định mọi hoạt động xây dựng, sinh hoạt và lãnh đạo của một Đảng. Nếu nền tảng tư tưởng thay đổi, tất yếu sẽ dẫn tới sự thay đổi về mục tiêu, lý tưởng, nguyên tắc tổ chức, phương hướng hoạt động chính trị của Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.

Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, nền tảng tư tưởng của Đảng ta là Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung nền tảng đó vừa mang tính cách mạng vừa có tính khoa học sâu sắc. Thực tế đã và đang khẳng định bản chất cách mạng và khoa học, giá trị và sức sống bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá một cách khách quan, chính xác, đầy đủ và sâu sắc về vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin không những là “cẩm nang” thần kỳ, là kim chỉ nam mà còn là “mặt trời soi sáng” con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Ngay từ khi ra đời, Đảng ta xác định “lấy chủ nghĩa Mác - Lênin” làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Điều lệ Đảng năm 1935 khẳng định: “Đảng Cộng sản Đông Dương, đội tiền phong duy nhất của vô sản giai cấp, tranh đấu để thu phục đa số quần chúng vô sản, lãnh đạo nông dân lao động và tất thảy quần chúng lao động khác, chỉ huy họ làm cách mạng phản đế và điền địa (mưu cho Đông Dương được hoàn toàn độc lập, dân cày được ruộng đất, các dân tộc thiểu số được giải phóng), lập chính quyền Xô viết công nông binh, đặng dự bị điều kiện tranh đấu thực hiện vô sản chuyên chính, kiến thiết xã hội chủ nghĩa là thời kỳ đầu của cộng sản chủ nghĩa theo chương trình của Quốc tế Cộng sản”. Điều lệ của Đảng năm 1951 chỉ rõ: “Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Ănghen - Lênin - Stalin và tư tưởng Mao Trạch Đông kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng”. Đại hội Đảng lần thứ III (1960) của Đảng xóa bỏ cụm từ "Ănghen, Stalin và tư tưởng Mao Trạch Đông", Nghị quyết đại hội xác định: “Đảng lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng”. Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Đến Đại hội VII (6/1991), Đảng bổ sung điểm mới: “Nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh”; đồng thời, khẳng định: tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, năm 1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đây là bước phát triển lớn trong tư duy, nhận thức và hoạt động thực tiễn về nền tảng tư tưởng của Đảng; thể hiện rõ quan điểm nhất quán về mặt tư tưởng, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận cơ bản cấu thành hệ tư tưởng, thế giới quan, phương pháp luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự khẳng định nền tảng tư tưởng của Đảng trong Cương lĩnh năm 1991, không chỉ bảo đảm sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng mà còn thể hiện rõ ý chí kiên quyết đấu tranh đối với những những luận điệu sai trái, thù địch đi ngược lại tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, năm 2016, Đảng ta xác định: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam”. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Trong bối cảnh hiện nay, trước những nguy cơ và thách thức lớn đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng đã nhấn mạnh: Đảng ta luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và ngày càng lớn mạnh. Để xây dựng và phát triển đất nước không còn con đường nào khác ngoài con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, trên thực tế con đường này đã khẳng định được sự thành công rõ nét, thể hiện qua các thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và thành tựu của công cuộc đổi mới.

Nền tảng tư tưởng đã được Đảng xác định sẽ tiếp tục soi sáng đường đi tới cho cách mạng Việt Nam. Nhận thức sâu sắc sự nguy hại và hậu quả nghiêm trọng của việc xa rời nền tảng tư tưởng, trong Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đặt lên hàng đầu quan điểm : “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên trì, kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng và kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Cuộc đấu tranh để bảo vệ nền tảng tư tưởng có những thời điểm quyết liệt, có tính chất sống còn, có những lúc êm ả nhưng không kém phần cam go, phức tạp, nhưng Đảng ta vẫn đứng vững.  Trong tình hình hiện nay, Đảng và nhân dân ta đang tiếp tục công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, thế và lực của chúng ta đã lớn mạnh hơn, nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng vẫn đang diễn ra với những khó khăn và thách thức mới, các thế lực thù địch và phản động đang ra sức đẩy mạnh chống phá Đảng ta, đặc biệt là trên mặt trận tư tưởng, chính trị; một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, nhận thức không đúng về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, càng khiến cho việc đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch gặp nhiều khó khăn, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng”. Do đó, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch là yêu cầu tất yếu để xây dựng và phát triển Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh.

Thứ Sáu, 9 tháng 5, 2025

Phong trào cánh tả Mỹ La-tinh hiện nay và triển vọng trong thời gian tới

 Gần đây, một số bạn đọc có thư và điện thoại về Tòa soạn bày tỏ mong muốn tìm hiểu rõ thêm về phong trào cánh tả ở Mỹ La-tinh hiện nay. Nhằm đáp ứng phần nào yêu cầu của bạn đọc, Tạp chí Quốc phòng toàn dân đăng bài viết dưới đây của tác giả Thái Văn Long, cán bộ Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

Cánh tả Mỹ La-tinh hiện nay bao gồm lực lượng của các Đảng Xã hội Dân chủ trong khu vực. Tuy nhiên, do sự thống nhất về mục tiêu và tính lan tỏa cách mạng vốn nổi trội ở khu vực, nên cánh tả Mỹ La-tinh còn bao gồm sự hợp tác, tham gia của các Đảng Cộng sản, công nhân và các lực lượng cách mạng tiến bộ khác trong liên minh cầm quyền, vì vậy gọi là: Phong trào cánh tả Mỹ La-tinh.

Lực lượng cánh tả liên tiếp giành thắng lợi trên chính trường Mỹ La- tinh gần đây do nhiều nguyên nhân; song trước hết, do tác động bởi xu hướng dân chủ hoá đời sống chính trị khu vực. Xu hướng này bắt đầu xuất hiện từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX - thời kỳ mà các nhà bình luận quốc tế hay dùng là: "Thời kỳ sau Việt Nam". Tiến trình dân chủ hoá có ảnh hưởng mạnh mẽ đến cục diện chính trị toàn khu vực, trong đó tiêu biểu nhất là sự kiện ở Chi-lê và Pa-ra-goay. Ở Chi-lê, sau 13 năm bị kìm kẹp bởi chế độ độc tài phát xít, 16 đảng đối lập ở Chi-lê đã đoàn kết trong một liên minh chung và giành thắng lợi trước nhà độc tài Pi-nô-chê trong cuộc trưng cầu dân ý năm 1988 và Tổng tuyển cử năm 1989. Ở Pa-ra-goay, chế độ độc tài khét tiếng Xi-trô Et-xnô cũng bị sụp đổ sau cuộc tổng tuyển cử tự do tháng 1-1989. Trước tình hình đó, các Tổng thống Mỹ, từ R.Rigân (nhiệm kỳ 1983-1989) đến G.Bush (cha) (nhiệm kỳ 1989-1993) buộc phải bỏ rơi những đồng minh thân cận nhất của mình, công nhận thắng lợi của các lực lượng dân sự, tiến bộ ở các nước này và điều chỉnh chính sách đối với khu vực. Sau khi thoát khỏi chế độ độc tài, khôi phục thể chế dân chủ, các cải cách chính trị đã tạo dựng một môi trường hoà bình và thuận lợi để Mỹ La-tinh tập trung phát triển kinh tế. Gần đây, sự bất lực của các chính quyền cánh hữu trong việc đề ra đường lối phát triển đất nước cùng với nạn tham nhũng đã gây bất bình trong nhân dân, tạo điều kiện cho các lực lượng cánh tả có đường lối dân tộc tiến bộ nắm thời cơ, vận động, tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng lao động để tranh cử và giành thắng lợi ở một loạt nước.

Cùng với sự biến đổi đó là sự phá sản của chủ nghĩa tự do mới. Trong các thập niên 50 và 60 của thế kỷ trước, Mỹ La-tinh là khu vực đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhờ thực hiện đường lối công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Nhưng chính điều đó đã gây ra sự khan hiếm ngoại tệ mạnh và sự cắt đứt với thị trường quốc tế. Bởi vậy, từ cuối những năm 70, khi sức cạnh tranh của khu vực này trên thị trường xuất khẩu thế giới bắt đầu sụt giảm, nền kinh tế Mỹ La-tinh nhanh chóng rơi vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng. Những năm 80, nợ nước ngoài của Mỹ La-tinh lên tới 240 tỷ USD, lạm phát phi mã ở mức 4 con số; lưu thông tiền tệ bị phá vỡ... Nhằm thoát khỏi tình trạng này, Mỹ La-tinh bắt đầu thực hiện cải cách kinh tế theo mô hình chủ nghĩa tự do mới. Thực chất mô hình này là hiện thân chiến lược của tư bản Mỹ nhằm duy trì và củng cố vai trò thống trị đối với khu vực "sân sau" của mình. Thực tế, đầu những năm 90, việc tiến hành những cải cách theo mô hình chủ nghĩa tự do mới (như: loại bỏ việc kiểm soát giá cả, đô la hoá tiền tệ, tự do hoá thương mại, tư nhân hoá, giảm vai trò quản lý của nhà nước...) đã đem lại một vài cải biến tích cực trong đời sống kinh tế khu vực. Mức tăng trưởng kinh tế và tình hình tài chính được cải thiện (GDP tăng bình quân trong mấy năm đó đạt 3,5%); lạm phát giảm từ mức 3 con số xuống 1 con số; xuất khẩu mở rộng; thu hút đầu tư bên ngoài với số lượng lớn... Tuy nhiên, những khởi sắc kinh tế đó lại dựa trên cơ sở các yếu tố không vững chắc. Từ giữa những năm 90, hệ lụy của những cải cách theo mô hình chủ nghĩa tự do mới bắt đầu lộ rõ; nền kinh tế bị chao đảo, GDP tăng giảm thất thường (với dao động từ 5,2% năm 1994 xuống 0,3% năm 1999); phân hoá giàu nghèo lan rộng. Vì thế, Mỹ La-tinh được coi là khu vực bất bình đẳng nhất trên thế giới (người nghèo chỉ nhận được 1,6% GDP, người nghèo tăng từ 200 triệu năm 1999 lên 225 triệu năm 2003, chiếm 44% tổng số dân toàn khu vực); tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 7,5% (năm 1990) lên hơn 10% (năm 2001)1. Đứng trước tình hình đó, Tổng thống Vê-nê-du-ê-la H.Cha-vét đã lên án chính sách thị trường tự do của Mỹ áp dụng ở Mỹ La-tinh là một "liều thuốc chết người”2; đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động tỏ rõ sự bất bình, thất vọng về "chủ nghĩa tự do mới” và hướng sự ủng hộ vào các chính sách tiến bộ của lực lượng cánh tả.

 Trong số các nguyên nhân tạo nên sự phát triển của phong trào cánh tả Mỹ La tinh, còn phải kể đến sự thay đổi sách lược đấu tranh và thực hiện cải cách kinh tế. Những năm gần đây, các lực lượng cánh tả đã chuyển từ hoạt động vũ trang sang vận động quần chúng nhân dân, liên kết với các phong trào cánh tả và tiến bộ ở trong nước và khu vực; thực hiện đấu tranh nghị trường, đưa ra cương lĩnh vận động đáp ứng nguyện vọng của người dân và phù hợp với tình hình thực tế ở Mỹ La-tinh. Đặc biệt, các đảng cánh tả đã liên kết với nhau thành lực lượng rộng rãi, phối hợp đấu tranh trên mặt trận chung; như việc các nhà lãnh đạo 3 nước: Bô-li-vi-a, Cu-ba và Vê-nê-du-ê-la đã ký Hiệp định thương mại ba bên (ALBA) nhằm trao đổi thương mại và hỗ trợ nhau cùng phát triển và là đối trọng của Khu vực mậu dịch tự do châu Mỹ (FTAA)... Các nước Mỹ La-tinh có nhiều nét tương đồng về lịch sử, văn hoá, địa lý; vì thế, việc các đảng cánh tả giành thắng lợi càng tạo điều kiện để họ gắn bó, sát cánh, giúp đỡ nhau cùng đấu tranh cho mục tiêu xoá bỏ nghèo đói, bất công, cải cách kinh tế, thực hiện công bằng xã hội, vì sự tiến bộ và phát triển.

Trước thực tế đó, từ năm 1998 đến nay, thông qua bầu cử dân chủ, các chính phủ cánh tả tiến bộ đã lên cầm quyền ở nhiều nước Mỹ La- tinh, trong đó có một số chính phủ tái đắc cử, như: Vê-nê-du-ê-la, Chi-lê, Bra-xin, Ác-hen-ti-na, Pa-na-ma, U-ru-guay, Bô-li-vi-a, Ni-ca-ra-goa, E-cu-a-đo... Tại Pa-ra-guay, ngày 21-4-2008, ông Phéc-năng-đô Lu-gô - lãnh tụ phong trào cánh tả - đã đắc cử Tổng thống. Gần đây nhất, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Pha-ra-bun-đô Mác-ti (En Xan-va-đo) đã giành thắng lợi trong cuộc bầu cử ngày 15 tháng 3 năm 2009, đưa nhà báo Ma-uy-xi-ô Phu-nét (Thành viên của Mặt trận) lên làm Tổng thống. Sau những năm cầm quyền, lãnh đạo cánh tả đã tiến hành một số cải cách phù hợp, tiến bộ, bước đầu mang lại kết quả đáng khích lệ, đưa kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, trì trệ và đang trên đà phục hồi, tăng trưởng khá (Vê-nê-du-ê-la: 9,6%; Ác-hen-ti-na: 8,3%; Chi-lê: 5%...). Nhờ tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống nghèo đói của các chính phủ cánh tả, tỷ lệ người nghèo giảm từ 44% (năm 2002) xuống còn 38% (năm 2006)3. Từ năm 2002 đến  năm 2005 Bra-xin đã hoàn trả số nợ 15,5 tỷ USD cho IMF trước thời hạn 2 năm4. Chương trình xã hội "không có người đói" của Chính phủ Bra-xin được coi là chương trình trợ cấp xã hội lớn nhất trên thế giới. Những năm qua, đa số chính phủ cánh tả ở Mỹ La-tinh đã tuyên bố tiến hành cải cách kinh tế - xã hội, chuyển từ mô hình kinh tế thị trường tự do sang mô hình kinh tế thị trường kết hợp giải quyết các vấn đề xã hội; đẩy mạnh chiến dịch chống tham nhũng; cải cách ruộng đất; xoá đói giảm nghèo, xoá nạn mù chữ; tạo công ăn việc làm; cung cấp tín dụng, vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; xây dựng nhà ở cho người nghèo; cải thiện dịch vụ y tế, văn hoá cộng đồng; điều chỉnh một số luật theo hướng coi trọng lợi ích quốc gia và có lợi cho người lao động. Về đối ngoại, các nhà lãnh đạo cánh tả đều thực thi chính sách mềm dẻo, linh hoạt, thúc đẩy hợp tác đa phương. Họ chủ trương thiết lập quan hệ với tất cả các nước trên thế giới và thực hiện công bằng với Mỹ, trên nguyên tắc tôn trọng hoà bình và quyền tự quyết của các dân tộc. Các nước trong khu vực đã nối lại và tăng cường hợp tác với Cu-ba, phản đối chính sách bao vây cấm vận của Mỹ đối với hòn đảo tự do này; ủng hộ quá trình dân chủ hoá trong quan hệ quốc tế và cải tổ Liên hợp quốc; ủng hộ cuộc đấu tranh chống khủng bố; phấn đấu vì một trật tự thế giới mới. Để đạt mục tiêu đề ra, các đảng cánh tả đã có chính sách đoàn kết liên minh rộng rãi, tập hợp lực lượng, trao đổi kinh nghiệm, phối hợp hành động chống lại chủ nghĩa tự do mới, chống lại sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc, phấn đấu xây dựng một xã hội lấy con người làm trung tâm; tiêu biểu như: Diễn đàn Sao Pao-lô; các cuộc hội thảo quốc tế "Các đảng và một xã hội mới" do Đảng Lao động Mê-hi-cô chủ trì hằng năm; hội nghị "Toàn cầu hoá và những vấn đề của phát triển" do Cu-ba đăng cai; Diễn đàn Xã hội thế giới tại Pô-tô A-lê-gre do các tổ chức phi chính phủ của Bra-xin khởi xướng…

Trong các nước Mỹ La tinh do cánh tả cầm quyền hiện nay, Vê-nê-du-ê-la là nước có tiến trình cải cách sâu rộng và triệt để. Tổng thống H.Cha-vét nhiều lần công khai tuyên bố mục tiêu của cuộc cách mạng Bô-li-va5 ở Vê-nê-du-ê-la là đưa đất nước đi lên "chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI". Trong bài phát biểu (ngày 3-12-2006) ngay sau khi tái đắc cử, Tổng thống H.Cha-vét đã khẳng định "Vê-nê-du-ê-la sẽ tiếp tục con đường đi lên CNXH thế kỷ XXI". Thực hiện mục tiêu trên, Tổng thống H.Cha-vét cùng các chính đảng cánh tả ở Vê-nê-du-ê-la đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, thảo luận và bước đầu xác định những nội dung cơ bản của "Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI". Theo đó, về chính trị, lấy chủ nghĩa Mác, tư tưởng cách mạng và tiến bộ của Xi-mông Bô-li-va, tư tưởng nhân đạo Thiên chúa giáo làm nền tảng tư tưởng; nhấn mạnh tư tưởng "dân chủ cách mạng" (còn gọi là dân chủ tham gia) và "chính quyền nhân dân"; xúc tiến thành lập Đảng XHCN thống nhất Vê-nê-du-ê-la (PSUV). Về kinh tế, chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước và kinh tế Hợp tác xã giữ vai trò chủ đạo; thực hiện quốc hữu hoá nền kinh tế quốc dân.Về xã hội, thực hiện phân phối công bằng của cải xã hội; giải quyết vấn đề bất bình đẳng và phân hoá giàu nghèo. Về đối ngoại, thúc đẩy khối đoàn kết Mỹ La-tinh và quan hệ hữu nghị với tất cả các nước; lấy hợp tác thay thế cạnh tranh; đấu tranh cho một thế giới đa cực và dân chủ. Về phương thức thực hiện, kế thừa những mặt tốt đẹp của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu trước đây, nhưng không rập khuôn, sao chép mà thường xuyên đổi mới và sáng tạo; phát triển mạnh kinh tế, tham gia hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế; coi trọng các giá trị đạo đức, tinh thần; đoàn kết toàn dân tộc; chú trọng kinh nghiệm quốc tế của các nước XHCN.

Việc thành lập Đảng XHCN thống nhất Vê-nê-du-ê-la làm nòng cốt lãnh đạo sự nghiệp xây dựng CNXH thế kỷ XXI, được Tổng thống H.Cha-vét tiến hành một cách khẩn trương; tháng 12 năm 2007 Đảng đó chính thức đi vào hoạt động. Trong năm 2008, Đảng XHCN thống nhất Vê-nê-du-ê-la do Tổng thống H.Cha-vét làm chủ tịch đã giành thắng lợi trong lần trưng cầu dân ý về  việc sửa đổi Hiến pháp, cho phép tăng nhiệm kỳ của Tổng thống lên 6 năm. Điều này đã mở đường cho H.Cha-vét tiếp tục tranh cử Tổng thống lần sau.

Có thể nói, sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, sự phát triển của phong trào cánh tả Mỹ La-tinh là một “hiện tượng”, được dư luận thế giới hết sức quan tâm. Giới phân tích dự báo: thời gian tới, nhiều khả năng lực lượng cánh tả vẫn giữ được vai trũ cầm quyền tại nhiều nước trong khu vực, do duy trì thể chế dân chủ tư sản và nền kinh tế thị trường, nhưng vẫn đáp ứng một phần nhu cầu của đa số cử tri. Các nước do lực lượng cánh tả lãnh đạo tiếp tục thực hiện chính sách phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết các vấn đề xã hội, nhất là xóa đói, giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, thu hẹp bất bình đẳng xã hội; đề cao ý thức bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc, tinh thần đoàn kết Mỹ La-tinh, chống đế quốc. Xu thế liên kết, hội nhập chính trị - kinh tế - thương mại giữa các nước trong khu vực tiếp tục được thúc đẩy. Các tổ chức hội nhập cấp tiểu vùng, như Liên minh các quốc gia Nam Mỹ (MERCOSUR), Cộng đồng các quốc gia vùng lãnh thổ An-dét (CAN), khối thị trường chung Ca-ri-bê (CARKOM), Khối kinh tế Trung Mỹ (Kế hoạch Pu-ê-la)… có thể sáp nhập với nhau thành những tổ chức hội nhập lớn hơn theo mô hình chung EU để tăng cường sức mạnh nội khối và năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, ngoài các nhân tố tác động từ bên ngoài, sự cạnh tranh vai trò ảnh hưởng trong khu vực sẽ diễn ra theo chiều hướng tăng lên, nhất là giữa các lực lượng cánh tả ôn hòa và lực lượng cánh tả cấp tiến (Vê-nê-du-ê-la và Bra-xin). Có thể dự đoán xu hướng trong thập kỷ tới: Thứ nhất, các lực lượng đế quốc, tư sản phương Tõy (đặc biệt là Mỹ) sẽ tỏ rõ thái độ của mình và sẽ tìm mọi biện pháp để giành lại vị thế trước đây ở khu vực; Nga và Trung Quốc sẽ đẩy mạnh quan hệ với các nước Mỹ La-tinh trên mọi lĩnh vực để gây ảnh hưởng và tăng thế cạnh tranh trực tiếp với Mỹ ở Tây bán cầu. Thứ hai, các đảng phái đối lập ở nhiều nước vẫn còn thế lực và lại có sự hậu thuẫn của Mỹ, sẽ ra sức chống phá những cải cách mang tính cách mạng mà các chính phủ cánh tả đang nỗ lực thực hiện ở Mỹ La-tinh. Thứ ba, bản thân các lực lượng cánh tả trong khu vực phải tìm cách giải quyết nhiều vấn đề hóc búa cả về lý luận cũng như tổ chức thực tiễn. Thứ tư, cho dù những ảnh hưởng tích cực của phong trào này đối với sự phát triển của khu vực là không nhỏ, nhưng việc phổ biến nó lại là điều không đơn giản. Có thể nói, triển vọng tới đây của trào lưu cánh tả ở Mỹ La-tinh và mục tiêu xây dựng CNXH thế kỷ XXI tùy thuộc rất nhiều vào tài năng chèo lái, uy tín của các nhà lãnh đạo; vào khả năng tiếp tục đẩy mạnh các cải cách về chính trị, kinh tế - xã hội mang tính cách mạng; vào việc xây dựng các chính đảng tiên phong vào việc củng cố khối đoàn kết toàn dân, xây dựng và củng cố khối liên kết, hợp tác hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước Mỹ La-tinh cũng như ủng hộ của các lực lượng cách mạng, cánh tả tiến bộ trên thế giới.

Những chuyển biến tích cực của phong trào cánh tả Mỹ La-tinh trong thời gian qua đã làm thay đổi cán cân so sánh lực lượng giữa các đảng phái tại vùng đất vốn được coi là "sân sau" của Mỹ và làm suy yếu nghiêm trọng ảnh hưởng của Oa-sinh-tơn ở đây. Mặc dù còn rất nhiều khó khăn ở phía trước, nhưng những thắng lợi mà phong trào đạt được đã tạo niềm tin cho nhân loại tiến bộ trên thế giới vào tương lai "một thế giới tốt đẹp hơn" là hoàn toàn có thể trở thành hiện thực.

Cống hiến vĩ đại của Ph.Ăngghen đối với chủ nghĩa Mác và lịch sử phong trào công nhân quốc tế

 Ph.Ăngghen (1820-1895) là người bạn đồng hành, người đồng chí tin cậy của C.Mác. Mặc dù chỉ tự nhận mình là “cây vĩ cầm thứ hai” đứng bên cạnh C.Mác nhưng cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen đã có công lao to lớn trong việc xây dựng, phát triển chủ nghĩa Mác ngày càng hoàn bị và thực sự trở thành vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân trong việc đấu tranh giải phóng giai cấp mình và giải phóng toàn nhân loại. Dù toàn bộ những tư tưởng vĩ đại của hai ông chỉ mang tên là chủ nghĩa Mác đúng như tên gọi mà Ph.Ăngghen dành cho người bạn của mình trước khi qua đời nhưng không vì thế mà chúng ta không ghi nhận và trân trọng những cống hiến vĩ đại của Ph.Ăngghen đối với chủ nghĩa Mác và lịch sử phong trào công nhân quốc tế.

1. Hành trình tư tưởng của Ph.Ăngghen

Ph.Ăngghen sinh ngày 28.11.1820 tại Bácmen, tỉnh Rêni của Vương quốc Phổ (hiện nay là một phần của nước Đức). Ông là con trai trưởng của một nhà sản xuất sợi dệt giàu có người Đức. Cha ông là một chủ tư bản lớn, rất sùng đạo, tháo vát về kinh doanh, giao du rộng nhưng về chính kiến thì rất bảo thủ. Mẹ ông là một trí thức kinh tế, nhạy cảm, đôn hậu, hoạt bát, thích hài hước và yêu văn học, nghệ thuật. Ông ngoại của Ph.Ăngghen là một giáo sư đại học về ngôn ngữ học, thường kể cho cháu ngoại mình nghe chuyện về các anh hùng trong các thần thoại Hy Lạp cổ đại và truyền thuyết dân gian Đức.

Khi còn nhỏ, Ph.Ăngghen học trung học tại Bácmen. Năm 1837, khi mới 17 tuổi, Ph.Ăngghen đã phải dừng việc học để tập trung vào kinh doanh theo ý nguyện của cha. Ông làm việc ở văn phòng của cha gần một năm, sau đó đến Bơremơ làm trong một hãng buôn lớn. Thời kỳ này, ông đã có điều kiện liên lạc với nhóm nhà văn cấp tiến “Nước Đức trẻ” và cộng tác với tờ báo “Điện tín Đức”. Đây được coi là bước đệm đầu tiên đưa Ph.Ăngghen tiếp xúc với những vấn đề chính trị.

Mùa xuân năm 1841, Ph.Ăngghen rời Bơremơ. Sau đó ông đi thăm Thụy Sỹ và miền Bắc nước Ý. Không bao lâu sau, Ph.Ăngghen đến Béclin và tham gia vào một trung đoàn pháo binh. Trong những năm tháng tuổi trẻ, Ph.Ăngghen rất yêu thích văn chương và triết học. Ông đã nhiều lần đăng ký dự thính các lớp giảng dạy triết học ở các trường đại học và vì thế ông có điều kiện tiếp xúc với nhóm Hêghen trẻ.

Cũng như nhiều người trẻ ở Đức lúc bấy giờ, Ph.Ăngghen rất đề cao tư tưởng của Hêghen nhưng ông không hoàn toàn đi theo những tư tưởng của nhà triết học nổi tiếng này. Ngay từ những năm 40 của thế kỷ XIX, Ph.Ăngghen đã luôn trăn trở về những điều được viết trong Kinh thánh và vào sự tồn tại của Chúa trời, Thượng đế.

Điều đó đã thôi thúc Ph.Ăngghen viết một loạt bài với nhan đề “Những lá thư gửi từ Vúppơtan” đăng trên tờ báo Điện tín Đức. Ph.Ăngghen viết: “Chỉ riêng vùng Enbơphenđơ, trong số 2.500 trẻ em đến tuổi đi học, có 1.200 em không có khả năng đến trường và phải lớn lên trong công xưởng - chỉ cốt để cho chủ xưởng khỏi phải trả cho công nhân người lớn mà các em thay thế, một số tiền công gấp đôi tiền trả cho trẻ em. Nhưng bọn chủ xưởng giàu thường có một lương tâm co giãn và linh hồn của một người thuộc phái kiền thành cũng chưa phải đã sa xuống địa ngục vì có thêm hay bớt đi một trẻ em bị héo hon, hơn nữa, nếu như cái linh hồn ấy mỗi ngày chủ nhật đều đi lễ nhà thờ hai lần”(1).

Năm 1842, sau khi hết hạn lính, Ph.Ăngghen sang Manchester (Anh). Đây là quãng thời gian rất quan trọng trên hành trình tư tưởng của ông, vì ở đây, Ph.Ăngghen có điều kiện tiếp xúc với đông đảo các tầng lớp, giai cấp công nhân Anh. Do đó, ông đã có dịp hiểu biết thêm về tình cảnh của họ. Cũng trong thời gian này, Ph.Ăngghen có dịp tiếp xúc với những chiến sĩ của phái Hiến chương Anh và bắt đầu hợp tác trong việc xuất bản những tài liệu về chủ nghĩa xã hội.

Năm 1844, Ph.Ăngghen cho đăng trên tờ “Niên giám Pháp - Đức” tác phẩm “Phê phán chính trị kinh tế học”. Đây được coi là tác phẩm mở đầu cho tư duy phê phán của Ph.Ăngghen khi xem xét những tư tưởng về chính trị, kinh tế của các nhà tư tưởng cùng thời. Điều này được C.Mác - người chủ của tờ “Niên giám Pháp - Đức” lúc này đánh giá rất cao và coi là “một cuốn đại cương tài tình về khoa học chính trị của giai cấp vô sản”.

Tháng 8.1844, Ph.Ăngghen rời Manchester sang Đức. Khi đi ngang qua Paris, ông đã gặp C.Mác. Từ đây bắt đầu tình cảm cao đẹp và vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen, đồng thời cũng tạo ra những chuyển biến rất quan trọng trên hành trình tư tưởng của Ph.Ăngghen. Do nhanh chóng bắt gặp những điểm tương đồng về mặt lập trường, tư tưởng nên Ph.Ăngghen cùng với C.Mác đã viết chung tác phẩm “Gia đình thần thánh” năm 1845 để chống lại phái Hêghen trẻ.

Trong tác phẩm, hai ông đã bước đầu xây dựng được một số quan điểm về chủ nghĩa xã hội trên lập trường duy vật cách mạng. Sau đó, khi trở về Đức, Ph.Ăngghen đã viết tác phẩm riêng có nhan đề “Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh”. Đây là kết quả của thời gian ngắn Ph.Ăngghen sống ở Anh và có điều kiện tiếp xúc với giai cấp công nhân nơi đây nhưng nó đã cho thấy Ph.Ăngghen bắt đầu nhận ra rằng giai cấp vô sản không chỉ là những người bị bóc lột đầy đau khổ mà họ còn có khả năng tự giải phóng giai cấp mình.

Mùa xuân năm 1845, Ph.Ăngghen đến Bruyxen gặp C.Mác. Hai ông đã bàn bạc, thống nhất và viết chung tác phẩm lớn là “Hệ tư tưởng Đức” vào năm 1846 để phê phán tư tưởng của phái Hêghen trẻ và tư tưởng của Phoiơbắc - một nhà triết học nổi tiếng ở Đức lúc bấy giờ. Đây là tác phẩm đánh dấu sự trưởng thành lớn về mặt tư tưởng của Ph.Ăngghen với bước chuyển từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa; đồng thời cho thấy sự rũ bỏ của Ph.Ăngghen cũng như người bạn của mình là C.Mác khỏi cái bóng của các nhà triết học lớn của Đức đang có tầm ảnh hưởng rất rộng lúc bấy giờ là Hêghen và Phoiơbắc để xây dựng cho mình một hệ thống lý luận độc lập.

Tháng 2.1848, cách mạng Pháp nổ ra, cả C.Mác và Ph.Ăngghen bị trục xuất khỏi Bruyxen, sau đó là Paris. Tháng 1-1849, hai ông đến Côlônhơ lập tờ báo Rênani để đấu tranh tư tưởng. Vì lẽ đó, chính quyền tư sản đã truy lùng, trục xuất các ông ở khắp mọi nơi. Các ông bị vu cáo là xúc phạm nhà cầm quyền và bị đưa ra tòa cùng những người cộng sản ở Côlônhơ. Tại phiên tòa, cả C.Mác và Ph.Ăngghen đã kịch liệt lên án tính chất phản động, phản dân chủ của thể chế và pháp quyền tư sản. Được sự ủng hộ lớn của những người cộng sản tham gia phiên tòa, hai ông đã trắng án.

Sau đó, Ph.Ăngghen còn tham gia vào phong trào khởi nghĩa vũ trang của nhân dân. Do phong trào bị đàn áp nên ông sang Thụy Sỹ rồi sang Anh. Đây là thời kỳ hoạt động thực tiễn đầy sôi nổi của Ph.Ăngghen; đồng thời  cung cấp cho ông những tư liệu sinh động để viết các tác phẩm về đấu tranh giai cấp và cách mạng như tác phẩm “Chiến tranh nông dân ở Đức” (1848-1849), và các tác phẩm viết chung với C.Mác như “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (1848), “Cách mạng và phản cách mạng ở Đức” (1851-1852).

Cuối năm 1850, khi biết C.Mác đang sửa soạn để viết công trình nghiên cứu đồ sộ là “Tư bản”, Ph.Ăngghen đã chuyển đến Manchextơ để làm công cho một hãng buôn lớn ở đây - một công việc mà ông không hề thích thú, thậm chí là khinh ghét nhưng giờ đây ông đã tình nguyện làm với mong muốn có tiền để giúp đỡ C.Mác và cả gia đình bạn sinh sống; giúp C.Mác chuyên tâm nghiên cứu và viết “Tư bản”.

Trong thời kỳ này, Ph.Ăngghen cũng nghiên cứu và viết sách về khoa học quân sự. Khác với C.Mác, Ph.Ăngghen do không được học đại học một cách chính quy nên chủ yếu ông tự học, tự nghiên cứu. Ngoài việc đồng hành với C.Mác, Ph.Ăngghen còn tự tìm cho mình một hướng nghiên cứu riêng là khoa học tự nhiên và ngoại ngữ. Đó là tiền đề để Ph.Ăngghen tự ghi tên mình vào một tác phẩm nổi tiếng “Biện chứng của tự nhiên”. Tác phẩm đánh dấu bước chuyển biến rất lớn về mặt tư tưởng của Ph.Ăngghen vì bằng những dẫn chứng, lập luận thuyết phục về giới tự nhiên, ông đã chỉ ra những nguyên lý, quy luật, phạm trù cơ bản của cả tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Đây là tác phẩm lớn được Ph.Ăngghen viết trong suốt 10 năm (1873-1883).

Năm 1876, Ph.Ăngghen viết tác phẩm “Tác dụng của lao động trong việc chuyển biến từ vượn thành người”. Đây được đánh giá là tác phẩm triết học về xã hội xuất sắc của Ph.Ăngghen, chứng minh khả năng của Ph.Ăngghen trong nghiên cứu cả giới tự nhiên và xã hội loài người.

Vào thời gian 1877-1878, khi đang viết “Biện chứng của tự nhiên”, ở Đức nổi lên một nhà triết học là O.Đuyrinh lên tiếng muốn phủ nhận, bác bỏ những tư tưởng của C.Mác. Ph.Ăngghen đã gác bỏ lại tác phẩm đang viết dở để tập trung củng cố, bảo vệ học thuyết Mác; nhân đó trình bày một cách có hệ thống các nguyên lý của chủ nghĩa Mác trên cả ba phương diện là triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học; đồng thời vạch trần sự xuyên tạc, giả dối có tính chất chủ quan của Đuyrinh trong tác phẩm nổi tiếng “Chống Đuyrinh”.

Sau khi C.Mác qua đời vào năm 1883, một mặt Ph.Ăngghen phải dồn sức để hoàn thành các tập tiếp theo của bộ “Tư bản” mà C.Mác còn dang dở; mặt khác, cùng với sức lao động phi thường và trí tuệ xuất sắc, Ph.Ăngghen còn viết một tác phẩm nổi tiếng từ sự khảo cứu lịch sử với nhan đề “Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước”, đồng thời quay trở lại hoàn thành  tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” vào cuối năm 1883. Sau đó, Ph.Ăngghen viết tác phẩm nổi tiếng “Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” (1888).

Trong những năm cuối đời, Ph.Ăngghen dành nhiều thời gian trao đổi thư từ với nhiều nhà triết học để bổ sung và làm rõ thêm những quan điểm duy vật về lịch sử nhằm phân biệt cách nhìn duy vật biện chứng về lịch sử với cách nhìn tầm thường, thô lỗ về lịch sử. Điểm rất đáng lưu ý trên hành trình tư tưởng của Ph.Ăngghen là trong khoảng hơn 20 năm (1872-1893), ông cùng C.Mác đã bảy lần viết “Lời tựa” cho những lần tái bản tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Sau khi C.Mác qua đời năm 1883, những lời tựa sau đó chỉ còn một mình Ph.Ăngghen đứng tên. Những lời tựa đó chính là sự bổ sung, phát triển tư tưởng của Tuyên ngôn trên quan điểm thực tiễn, lịch sử - cụ thể và phát triển; làm cho “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” trở thành tác phẩm kiểu mẫu của việc bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác bằng thực tiễn sinh động mà chính Ph.Ăngghen là người đi đầu.

Ngày 5.8.1895, Ph.Ăngghen qua đời tại Luân Đôn, thọ 75 tuổi. Bình đựng tro cốt của Ph.Ăngghen được thả trên bờ biển miền Nam nước Anh - nơi ông vẫn thích đến đó nghỉ ngơi đúng như tâm nguyện cuối cùng của ông. Cuộc đời của Ph.Ăngghen không chỉ gắn liền với tình bạn cao đẹp với C.Mác - một tình bạn đã đi vào huyền thoại mà còn cho thấy hành trình tư tưởng đi từ “vương quốc của tất yếu” đến “vương quốc của tự do”. Vì vậy, V.I.Lênin - người học trò xuất sắc của C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Từ ngày mà vận mệnh đã gắn liền C.Mác với Ph.Ăngghen thì sự nghiệp suốt đời của hai người bạn ấy trở thành sự nghiệp chung của họ”(2). V.I.Lênin cũng khẳng định thêm: “Không thể nào hiểu được chủ nghĩa Mác và trình bày đầy đủ được chủ nghĩa Mác, nếu không chú ý đến toàn bộ những tác phẩm của Ăngghen”(3).

2. Những đóng góp vĩ đại của Ph.Ăngghen đối với sự hình thành, phát triển của chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân quốc tế

Trong suốt 40 năm gắn liền với C.Mác, Ph.Ăngghen đã dành trọn cuộc đời mình cho việc xây dựng nên một học thuyết khoa học hoàn bị và có vai trò to lớn trong việc cỗ vũ, khích lệ và trở thành vũ khí lý luận cho giai cấp vô sản đấu tranh giải phóng giai cấp mình và giải phóng xã hội loài người. Những đóng góp vĩ đại của Ph.Ăngghen đối với sự hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác cũng như phong trào công nhân quốc tế được thể hiện ở những khía cạnh chủ yếu sau:

Thứ nhất, Ph.Ăngghen đã có đóng góp to lớn trong việc xây dựng học thuyết Mác trên cả ba bộ phận cấu thành là triết học, chủ nghĩa xã hội khoa học và kinh tế chính trị học.

Trên lĩnh vực triết học, cũng như C.Mác, Ph.Ăngghen tuy xuất thân từ phái Hêghen trẻ nhưng ông đã có công lao to lớn trong việc xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng. Mặc dù trong khi khẳng định quan điểm duy vật về lịch sử là một trong hai phát kiến vĩ đại của C.Mác, Ph.Ăngghen cũng có công lao to lớn cung cấp những luận chứng thuyết phục để chứng minh tính chất duy vật triệt để của học thuyết Mác trong lĩnh vực lịch sử, xã hội; làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và là “công cụ nhận thức vĩ đại” của con người. Đặc biệt, bằng việc chỉ ra những quy luật của giới tự nhiên, Ph.Ăngghen không chỉ khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới mà còn làm sáng tỏ thêm mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên. Với điều này, Ph.Ăngghen đã cùng với C.Mác xây dựng được một hệ thống lý luận triết học hoàn chỉnh với những quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

Trên lĩnh vực chủ nghĩa xã hội khoa học, với những trải nghiệm trong thời gian dài ở Anh, Pháp, Đức cùng thời gian cộng tác với C.Mác; Ph.Ăngghen đã tạo lập và hoàn thiện những quan điểm về chủ nghĩa xã hội khoa học mà linh hồn của lý luận đó là làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân - giai cấp có khả năng tổ chức và lãnh đạo xã hội thông qua Đảng Cộng sản, tiến hành cải biến xã hội từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội trên phạm vi từng nước và trên thế giới.

Có thể nói, nhờ có lý luận này, giai cấp công nhân đã từng bước bước lên vũ đài chính trị và xác lập được vai trò to lớn của mình. Cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen đã có công lao trong việc cung cấp những luận cứ thuyết phục để biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành chủ nghĩa xã hội khoa học. Vì vậy, “những chiến lược, sách lược cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và sự hình thành các chính đảng vô sản mà ông đưa ra trong những năm tháng cuối cùng của cuộc đời hoạt động lý luận và thực tiễn cách mạng của ông là một cống hiến lớn vào kho tàng chủ nghĩa xã hội khoa học”(4).

Trên lĩnh vực kinh tế chính trị học, Ph.Ăngghen đã chứng tỏ là một nhà kinh tế học xuất sắc khi đã chỉ ra được những quy luật vận động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, bóc trần bản chất bóc lột giá trị thặng dư của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đặc biệt, khi giúp C.Mác hoàn thành nốt những tập bản thảo còn dang dở của bộ “Tư bản”, Ph.Ăngghen cũng đã góp phần quan trọng trong việc luận giải những tư tưởng lớn của C.Mác về đặc trưng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Như vậy, có thể nói, “chủ nghĩa Mác trên tất cả các phương diện cấu thành của nó, từ nội dung đến phương pháp, từ những mầm mống đầu tiên đến khi có một diện mạo trưởng thành, từ những luận chiến đanh thép để tự bảo vệ trước những đòn tấn công, xuyên tạc của kẻ thù cho đến những tổng kết thực tiễn đặc sắc và những dự báo khoa học về xã hội tương lai đều in đậm dấu ấn những đóng góp kiệt xuất của Ph.Ăngghen”(5).

Thứ hai, cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen đã đưa chủ nghĩa Mác trở thành một học thuyết vừa mang tính khoa học, vừa mang tính cách mạng.

Ngay từ đầu, mục đích của cả C.Mác và Ph.Ăngghen khi xây dựng học thuyết của mình không phải mang tính lý luận thuần túy mà phải trở thành vũ khí tinh thần cho giai cấp công nhân. Vì vậy, trên hành trình của mình, Ph.Ăngghen đã dành nhiều thời gian để tìm hiểu về đời sống, tình cảnh của những người lao động, đặc biệt là giai cấp công nhân. Chính hoạt động của giai cấp công nhân ở Anh, Pháp, Đức... đã giúp cho Ph.Ăngghen từng bước hoàn thiện lý luận của mình trở thành một ngọn đuốc soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động cần lao. Phong trào công nhân đã tìm thấy ở triết học Mác vũ khí tinh thần của mình, còn triết học Mác tìm thấy ở phong trào công nhân vũ khí vật chất của mình: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”(6). Nhờ đó, học thuyết Mác không chỉ mang tính khoa học mà còn mang tính cách mạng.

Không chỉ hoạt động trong lĩnh vực tư tưởng để mang đến cho giai cấp công nhân vũ khí lý luận đấu tranh sắc bén, Ph.Ăngghen còn dành nhiều tâm sức để hoạt động thực tiễn và có đóng góp không nhỏ vào hoạt động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen đã đấu tranh không khoan nhượng chống lại những khuynh hướng cải lương và biệt phái (của Pruđông, Latxan, Bacunin...) để thống nhất hàng ngũ quốc tế.

Ph.Ăngghen là người đỡ đầu của Đảng Dân chủ - xã hội Đức và có ảnh hưởng to lớn đến hoạt động của Đảng. Những nhà xã hội chủ nghĩa Pháp, Áo, Hungari, Anh, Ba Lan, Tây Ban Nha, Italy, Nga, Hà Lan và nhiều nước khác đều nhận được sự giúp đỡ vô giá về tinh thần của Ph.Ăngghen. Vì vậy, đúng như V.I.Lênin nhận xét: “Sau bạn ông là Các Mác (mất năm 1883), Ph.Ăngghen là nhà bác học và là người thầy lỗi lạc nhất của giai cấp vô sản hiện đại trong toàn thế giới văn minh”(7). Những đóng góp to lớn của Ph.Ăngghen đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã khiến Ph.Ăngghen xứng danh là “người thầy vĩ đại” của giai cấp công nhân toàn thế giới.

Thứ ba, Ph.Ăngghen đã không ngừng bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào.

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen đã nhiều lần bị chính quyền tư sản các nước trục xuất, kiện ra tòa vì tội “nói xấu”, “phỉ báng” chính quyền. Không chỉ có vậy, tư tưởng của các ông luôn bị chủ nghĩa cơ hội, xét lại xuyên tạc, bội nhọ, phản bác. Vì vậy, bên cạnh những tác phẩm có tính chất tuyên ngôn hay lý luận thuần túy, Ph.Ăngghen còn viết một số tác phẩm bút chiến để vạch trần luận điệu xuyên tạc, lừa bịp của những kẻ cơ hội, tư sản. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất cần phải kể đến là “Chống Đuyrinh”. Với tác phẩm này, Ph.Ăngghen đã có dịp trình bày một cách có hệ thống những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác. Đó là cách mà Ph.Ăngghen vừa bảo vệ, vừa phát triển chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới. Điều đáng trân trọng là trong bất cứ điều kiện, tình huống nào, Ph.Ăngghen cũng luôn tuyệt đối trung thành với hệ tư tưởng mà mình và C.Mác đã xây dựng lên.

Ph.Ăngghen không bảo vệ chủ nghĩa Mác một cách cực đoan, cứng nhắc. Ph.Ăngghen từng nhấn mạnh: “Học thuyết của chúng tôi không phải là một giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động”(8). Ông không coi học thuyết Mác là một hệ thống đóng, một cái gì đó đã xong xuôi mà cần bổ sung, phát triển bằng thực tiễn sinh động. Điển hình là việc cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen đã bảy lần viết lại lời tựa cho tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Qua mỗi lần tái bản đã cho thấy Ph.Ăngghen luôn có ý thức bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác gắn với điều kiện, hoàn cảnh của mỗi thời kỳ lịch sử.

Tinh thần bảo vệ học thuyết Mác của Ph.Ăngghen đã được các học trò của ông kế thừa, khiến chủ nghĩa Mác ngày càng phát triển. V.I.Lênin - người đã không ngừng bảo vệ, phát triển học thuyết Mác nhiều lần nhấn mạnh: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”(9).

Chúng ta đang sống trong điều kiện rất khác so với thời của C.Mác và Ph.Ăngghen. Khoa học - công nghệ với những bước tiến nhảy vọt góp phần tạo ra lực lượng sản xuất mà xưa nay nhân loại chưa từng được chứng kiến. Tri thức xã hội phổ biến đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp như C.Mác dự báo; năng suất lao động nhờ vậy tăng lên nhanh chóng. Nền kinh tế tri thức đã ra đời và đang vận hành hiệu quả ở nhiều nước phát triển. Quá trình quốc tế hóa mà vào thế kỷ XIX C.Mác nói đến đã thực sự trở thành quá trình toàn cầu hóa trong thời đại chúng ta. Ở các mức độ khác nhau, tất cả các nước đều bị cuốn hút hội nhập vào toàn cầu hóa, bởi vì nó đã “xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp nơi”(10). Không ít kẻ vội cho rằng thực tiễn đã có nhiều thay đổi nên nhiều quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về lịch sử xã hội loài người đã không còn phù hợp nữa, cần phải được thay thế bằng một hệ thống lý luận khác. Điều này đặt ra yêu cầu quan trọng đối với chúng ta là một mặt tiếp tục khẳng định những chân giá trị của chủ nghĩa Mác, mặt khác, theo gương Ph.Ăngghen cần phải bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác bằng thực tiễn phong phú của thời đại ngày nay.

Thứ Tư, 7 tháng 5, 2025

Nội dung thời đại hiện nay


Đề cập đến nội dung thời đại, V.I.Lênin chỉ rõ, khi chủ nghĩa tư bản chuyển thành chủ nghĩa đế quốc thì thời đại lúc đó là thời đại chủ nghĩa đế quốc và cách mạng vô sản. Sau thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917, V.I.Lênin đã chỉ rõ về nội dung của thời đại hiện nay. Những đảo lộn to lớn xảy ra trên thế giới những năm qua không thể phủ nhận được sự thật lịch sử mà V.I. Lênin vạch ra ngay sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 - mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Nội dung của thời đại mới là xóa bỏ giai cấp tư sản và chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập những cơ sở của xã hội mới - xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

Quan điểm về thời đại hiện nay của V.I.Lênin được nhấn mạnh lại trong “Tuyên bố tại Hội nghị đại biểu các Đảng cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ nghĩa tháng 11-1957”, được bổ sung, làm rõ thêm tại Hội nghị đại biểu các Đảng cộng sản và công nhân thế giới, tháng 1-1960. Theo đó: “Thời đại chúng ta mà nội dung chủ yếu là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, là thời đại đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội đối lập, là thời đại cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng giải phóng dân tộc, là thời đại chủ nghĩa đế quốc bị sụp đổ và hệ thống thuộc địa bị thủ tiêu, là thời đại ngày càng có thêm nhiều dân tộc tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa, là thời đại thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới”.

Trên cơ sở phân tích khoa học, kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt, tại “Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)” đã xác định rõ nội dung của thời đại hiện nay: “là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội  trên phạm vi toàn thế giới, được mở đầu bằng cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, là thời đại đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội gắn liền với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại”.

Từ khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời đến nay, tình hình thế giới có nhiều biến đổi. Chủ nghĩa xã hội hiện thực phát triển mạnh mẽ, có giai đoạn quyết định xu hướng phát triển của xã hội loài người, song do có những sai lầm trong quá trình xây dựng nên đã rơi vào khủng hoảng, sụp đổ. Tuy nhiên, nội dung cơ bản của thời đại vẫn không thay đổi. Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới không diễn ra trong một thời gian ngắn và theo một con đường thẳng tắp, mà phải trải qua nhiều khúc quanh co, nhưng nhất định loài người sẽ đi đến một xã hội tốt đẹp hơn chế độ tư bản chủ nghĩa - đó là chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. 

Chủ nghĩa cộng sản (giai đoạn cao)

 


Xã hội cộng sản chủ nghĩa có đặc trưng cơ bản:Thực hiện sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất.Chủ nghĩa xã hội được xây dựng thành công, đưa lại sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất; theo đó, các hình thức sở hữu tư nhân, tập thể... không còn phù hợp. Cùng với đó là tính tự giác, năng lực tổ chức quản lý, khai thác tư liệu sản xuất của con người đạt trình độ cao. Vì vậy, quan hệ sản xuất chỉ có duy nhất hình thức sở hữu toàn dân, tức là toàn bộ tư liệu sản xuất đều là của chung của toàn xã hội. Thực hiện nguyên tắc: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Dưới chủ nghĩa cộng sản, trình độ khoa học - kỹ thuật phát triển rất cao, xã hội được tổ chức chặt chẽ, người lao động có trình độ, năng lực và hoàn toàn tự giác, vì lợi ích chung của cộng đồng, lao động trở thành không những là một phương tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là một nhu cầu bậc nhất của đời sống. Do đó, của cải được làm ra vô cùng dồi dào, đáp ứng mọi nhu cầu của nhân dân: Khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Tự quản xã hội thay cho nhà nước, xã hội không còn phân chia giai cấp, không có sự đối lập giữa lao động trí óc và chân tay.

Xã hội cộng sản chủ nghĩa, không còn sự phân chia giai cấp; nhà nước tự tiêu vong, trở thành một cơ quan chuyên lo việc tổ chức đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Người dân đều có ý thức thức tự giác, trách nhiệm cao, không cần tới sự quản lý, can thiệp của nhà nước, tự quản xã hội thay cho nhà nước, như V.I.Lênin đã chỉ ra: “Người ta sẽ dần dần quen với việc tôn trọng các quy tắc sơ thiểu của đời sống chung trong xã hội”1. Cùng với đó, trình độ tri thức của con người phát triển, phương pháp làm việc khoa học... theo đó sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, sự chênh lệch về đời sống vật chất và văn hóa giữa các dân tộc đều được xóa bỏ.

 Con người được giải phóng và phát triển toàn diện.Xã hội cộng sản chủ nghĩa, kết hợp hài hòa giữa phát triển chung của toàn xã hội với việc chăm lo nâng cao khả năng sáng tạo, khơi dậy tư tưởng, tâm hồn cao đẹp của từng cá nhân. Khi đó con người được giải phóng hoàn toàn và được phát triển toàn diện “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”2; nhân loại chuyển từ “vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do”; trí tuệ, năng lực và những đức tính tốt đẹp của con người được nảy nở, con người có điều kiện phát triển toàn diện về phẩm chất, năng lực, luôn sẵn sàng mang hết tài năng, trí tuệ cống hiến cho xã hội.



1 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2005, tr. 110.

2 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2002, tr. 286.